BÁT NHÃ TÂM KINH |
xuất xứ từ đâu ? |
Đào Nguyên |
Bát Nhã Tâm Kinh (Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh) vốn rất quen thuộc với người Phật tử, vì luôn được đọc tụng hàng ngày trong bất cứ một khóa tụng dài, ngắn nào. Về nội dung, bài kinh ngắn này là thâu tóm tất cả phần tinh túy diệu nghĩa của bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (600 quyển). Đồng thời nhấn mạnh về một số diệu dụng bất khả tư nghì của quá trình tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Ngài Tăng Triệu (384-414), một trong số các đệ tử thân tín của Pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413), trong khi chú giải kinh Kim Cương, đã cho rằng "Chủ yếu của kinh Kim Cương Bát nhã ba la mật là Không tuệ". Và một bậc tôn túc Việt Nam, khi dịch kinh Kim Cương Bát Nhã, cũng đã giải thích rõ thêm : Không tuệ là tuệ giác Bát Nhã : Tuệ giác như thật tri kiến về Như, nghĩa là không còn ngã chấp, nên gọi là Không tuệ. Không tuệ ấy, như thật tri kiến về đối tượng của nó thì gọi là Cảnh không, như thật tri kiến về bản thân của nó thì gọi là Tuệ không, như thật tri kiến về chủ thể của nó - người tu Không tuệ - thì gọi là Nhân không"... Toàn bộ những điểm vừa nêu cũng có thể dùng để thâu tóm diệu nghĩa của bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Và, quá trình tu tập để chứng đắc được Không tuệ ấy luôn khởi đầu, cũng như chung cuộc, là từ việc khám phá, lý giải tính chất không của năm uẩn trong mối tương quan hai chiều hay nhiều chiều của chúng. Đây chính là chỗ mà Bát Nhã Tâm kinh đã thâu tóm và thuyết minh : "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách...". Ở đây chúng tôi xin nêu lên một số đoạn trong bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, được xem như là xuất xứ trực tiếp của Bát Nhã Tâm kinh : - Phẩm thứ hai - Phẩm Học quán, phần 2, quyển 4 (Đại Chánh Tạng, viết tắt : ĐCT-qu.5, tr 17B-C). - Phẩm thứ ba - Phẩm Tương Ưng, phần 1, quyển 4 (ĐCT-qu.5, tr 22A-B). - Phẩm thứ chín - Phẩm Vô Trụ, phần 2, quyển 37 (ĐCT-qu.5, tr 205B). - Phẩm thứ mười - Phẩm Hành Tướng Bát Nhã, phần 2, quyển 39 (ĐCT-qu.5, tr 222B). - Hội thứ hai, Phẩm Quán Chiếu, phần 1, quyển 402 (ĐCT-qu.7, tr 11B-11C). - Hội thứ hai, Phẩm Quán Chiếu, phần 2, quyển 403 (ĐCT-qu.7, tr 14A). Xin trích dịch giới thiệu 1 đoạn :
"Xá Lợi Tử ! Tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát Ma Ha Tát dữ như thị đẳng không tương ưng thời, bất kiến sắc nhược tương ưng nhược bất tương ưng, bất kiến thọ, tưởng, hành, thức nhược tương ưng nhược bất tương ưng. Hà dĩ cố ? Xá Lợi Tử ! Thị Bồ Tát Ma Ha Tát bất kiến sắc thị sinh pháp nhược thị diệt pháp, bất kiến thọ tưởng hành thức nhược thị sinh pháp, nhược thị diệt pháp, bất kiến sắc nhược thị nhiễm pháp nhược thị tịnh pháp, bất kiến thọ tưởng hành thức nhược thị nhiễm pháp, nhược thị tịnh pháp... Xá Lợi Tử ! Vô hữu thiểu pháp dữ thiểu pháp hợp. Bản tính không cố. Sở dĩ giả hà ? Xá Lợi Tử ! Chư sắc không bỉ phi sắc. Chư thọ tưởng hành thức không bỉ phi thọ tưởng hành thức. Hà dĩ cố ? Xá Lợi Tử ! Chư sắc không bỉ phi phi biến ngại tướng. Chư thọ không bỉ phi lãnh nạp tướng. Chư tưởng không bỉ phi thủ tượng tướng. Chư hành không bỉ phi tạo tác tướng. Chư thức không bỉ phi liễu biệt tướng. Hà dĩ cố ?
Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức bất dị không, không bất dị thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tức thị không, không tức thị thọ tưởng hành thức. Hà dĩ cố ?... - Xá Lợi Tử ! Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, do khi cùng với những cái không tương ưng như thế, chẳng thấy sắc hoặc tương ưng hoặc không tương ưng; chẳng thấy thọ tưởng hành thức hoặc tương ưng hoặc không tương ưng. Vì sao ? Xá Lợi Tử ! Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy sắc là pháp sinh hay pháp diệt; chẳng thấy thọ tưởng hành thức là pháp sinh hay pháp diệt; chẳng thấy sắc là pháp nhiễm hay pháp tịnh; chẳng thấy thọ tưởng hành thức là pháp nhiễm hay pháp tịnh... Xá Lợi Tử ! Không có một pháp nhỏ nhiệm nào hợp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản tính là không. Do đâu mà nói như thế ? Này Xá Lợi Tử ! Cái không của các sắc, nó chẳng phải là sắc; các cái không của thọ tưởng hành thức, chúng chẳng phải là thọ tưởng hành thức. Vì sao ? Xá Lợi Tử! Cái không của các sắc, nó chẳng phải là tướng biến đổi, ngăn ngại; cái không của các thọ, nó chẳng phải là tướng lãnh nạp; cái không của các tưởng, nó chẳng phải là tướng nắm bắt hình tượng; cái không của các hành, nó chẳng phải là tướng tạo tác; cái không của các thức, nó chẳng phải là tướng phân biệt. Vì sao ? - Xá Lợi Tử ! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; thọ tưởng hành thức chẳng khác không, không chẳng khác thọ tưởng hành thức; thọ tưởng hành thúc tức là không, không tức là thọ tưởng hành thức. Vì sao ?... (Kinh Đại Bát Nhã Ba la Mật Đa, Phẩm thứ 3, Phẩm Tương Ưng, phần 1 qu.4, ĐCT-qu.5, tr 22A-22B) So sánh 2 bản dịch gần nhất về Bát Nhã Tâm Kinh Bát Nhã Tâm kinh mà người Phật tử thường tụng đọc hàng ngày là Bát Nhã Tâm kinh theo bản dịch của Pháp sư Huyền Trang (ĐCT-qu.8, tr 848C). Ngoài bản dịch này, trong Hán tạng hiện còn 6 bản dịch nữa, đáng chú ý hơn cả là bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập, mang tên là : Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú kinh (ĐCT-qu.8, tr 847C). Đọc hai bản dịch của Ngài La Thập (344-413) và Ngài Huyền Trang (602-664), chúng ta nhận thấy, ngoài một vài danh xưng, thuật ngữ phiên âm khác nhau nhưng đồng một nghĩa, như : Xá Lợi Phất = Xá Lợi Tử, Quán Thế Âm = Quán Tự Tại, Ngũ ấm = Ngũ uẩn, Bồ tát = Bồ đề tát đỏa... bản dịch của Ngài Huyền Trang hầu như đã dựa trên bản dịch của Ngài La Thập mà bỏ bớt đi 1 số chữ và thêm vào 1 vài chỗ cần thiết. Do đó bản dịch của ngài Huyền Trang trở nên gọn gàng, hàm xúc hơn và nhất là âm vận hết sức hài hòa, được phổ biến như chúng ta đã thấy. Bản dịch của Ngài La Thập khoảng 300 chữ, kể cả câu chú ở cuối kinh; bản dịch của Ngài Huyền Trang khoảng 260 chữ. Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, chúng tôi xin ghi lại phần phiên âm bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập như sau : những chỗ in chữ đứng là trong bản dịch của Ngài Huyền Trang đã bỏ bớt, những chỗ có dấu "V" là các chỗ Ngài Huyền Trang thêm vào. "Quán Thế Âm Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ ấm "V" không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Phất ! Sắc không cố vô não hoại tướng, thọ không cố vô thọ tưởng, tưởng không cố vô tri tướng, hành không cố vô tác tướng, thức không cố vô giác tướng. Hà dĩ cố ? Xá Lợi Phất ! Phi sắc dị không, phi không dị sắc "V" sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tuỏng hành thức diệt phục như thị. Xá Lợi Phất ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị không pháp phi quá khứ phi vị lai phi hiện tại. Thị cố không trung, vô sắc vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử "V" vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ Tát y Bát Nhã Ba La Mật "V" cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, "V" ly nhứt thiết điên đảo mộng tưởng khổ não, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật "V" cố đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật "V" thị đại minh chú, "V" vô thượng minh chú, "V" vô đẳng đẳng minh chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật "V" chú, tức thuyết chú viết : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tăng sa ha". (Bản dịch của Ngài Huyền Trang vẫn dùng chữ Tăng Sa Ha. Nhưng được chú thích ở dưới Tăng Sa = "Tát Bà" (ĐCT-qu.8, tr 848C). Về 5 bản dịch Bát Nhã Tâm kinh còn lại, xin nêu một số ghi nhận : 1.- Các bản dịch này gồm 4 bản được thực hiện vào đời Đường sau Ngài Huyền Trang và một bản vào đời Tống : - Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh : N.252, (ĐCT-qu.8) tr 849A-849B, Sa môn Pháp Nguyệt dịch (Đường). - Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh : N.253, (ĐCT-qu.8) tr 849C-850A, Sa môn Bát Nhã và Lợi Ngôn dịch (Đường). - Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh : N.254, (ĐCT-qu.8) tr 850A-B, Sa môn Trí Huệ Luân dịch (Đường). - Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh : N.255, (ĐCT-qu.8) tr 850A-850B, Sa môn Pháp Thành dịch (bản nơi thạch thất Đôn Hoàng, Đường). - Phật Thuyết Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh : N.257, (ĐCT-qu.8) tr 852B-852C, Thi Hộ dịch (Tống). 2.- Hai vị (Bồ Tát và Tôn giả) có mặt trong bài kinh này hầu hết đều được dịch giống như bản dịch của Ngài Huyền Trang (Bồ Tát Quán Tự Tại, Tôn giả Xá Lợi Tử). Riêng bản dịch của Sa môn Trí Huệ Luân thì vị Bồ Tát đó được dịch là Bồ Tát Quán Thế Âm Tự Tại, và bản dịch của Sa môn Bát Nhã thì vị Tôn giả được dịch là Xá Lợi Phất. 3.- Về cấu trúc của bài kinh, thì 5 bản dịch trên đều có thêm phần mở đầu (Như thị ngã văn nhất thời Phật tại...) và phần kết thúc (Đại chúng nghe kinh, hoan hỷ phụng hành...) để bài kinh này dù ngắn cũng đủ vóc dáng của một bản kinh như những bản kinh khác. Phần chánh của bài kinh nơi 5 bản dịch trên cũng đều có thêm một vài chi tiết để sự việc diễn tiến rõ ràng hơn : - Chẳng hạn, sau phần mở đầu thì cho biết, bấy giờ trong chúng hội có vị Bồ Tát tên Quán Tự Tại, bạch với Đức Phật xin nói về diệu pháp Bát Nhã Ba La Mật, và sau khi Đức Thế Tôn chấp thuận, Bồ tát Quán Tự Tại bèn nhập "Huệ quang Tam muội chánh thọ", chiếu kiến "ngũ uẩn tự tánh giai không", rồi ra khỏi pháp Tam muội, gọi Tôn giả Xá Lợi Tử để diễn nói diệu pháp (N.252). - Hoặc, sau phần mở đầu, thì Đức Thế Tôn nhập Tam muội "Quảng đại thậm thâm" (N.253), "Quảng đại thậm thâm chiếu kiến" (N.254), "Thậm thâm minh liễu tam ma địa pháp" (N.255), "Thậm thâm quang minh tuyên thuyết chánh pháp tam ma địa" (N.257), rồi sau khi Bồ Tát Quán Tự Tại nêu bày diệu pháp xong thì Đức Thế Tôn xuất định, khen ngợi. - Hoặc, Tôn giả Xá Lợi Tử, thừa uy lực của Đức Thế Tôn, hỏi Bồ Tát Quán Tự Tại, và Bồ Tát đã nhân đấy mà diễn nói diệu pháp (N.253, 254, 255, 257). 4.- Về văn từ : Vì bài kinh quá ngắn mà hàm chứa nhiều đoạn đối thoại, biện giải,..v.v... nên 5 bản dịch trên, xét về mặt văn từ đều không bằng bản dịch của Ngài La Thập, và tất nhiên là kém thua bản dịch của Ngài Huyền Trang. Cũng nên nói thêm về phần chú giải kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Trong giới Phật học Trung quốc, có lẽ Pháp sư Tăng Triệu (384-414) là người đầu tiên đã đánh giá cao, cùng có những nỗ lực nhằm phát hiện và diễn đạt diệu lý Bát Nhã với bài luận nổi tiếng Bát Nhã vô tri luận, sau này được in trong tập Triệu luận (Triệu luận, N.1858, (ĐCT-qu.5, tr 150-160). Xem thêm Triệu luận lược giải, Thích Duy Lực dịch). Theo HT Thanh Kiểm trong sách "Lược sử Phật giáo Trung quốc" thì vua Lương Vũ Đế (463-549), một bậc hộ pháp vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, thông đạt nội điển, đã từng chú giải kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thời ấy, kinh Đại Bát Nhã 600 quyển chưa được dịch đầy đủ. Như vậy, sự chú giải của vua Lương Vũ Đế hẳn chỉ dựa vào một số bản dịch đã có của các ngài Chi Lâu Ca Sấm (kinh Đạo Hành Bát Nhã, 10 quyển), Chi Khiêm (kinh Đại Minh Độ, 6 quyển), Vô La Xoa (kinh Phóng Quang Bát Nhã, 20 quyển), Trúc Pháp Hộ (kinh Quang Tán Bát Nhã, 10 quyển) và nhất là kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, 27 quyển, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch. Hiện tại, trong Đại Chánh Tạng thì có hai bản chú sớ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật của ngài La Thập dịch : - Đại phẩm Du Ý, 1 quyển, Đại sư Cát Tạng soạn (đời Tùy, ĐCT, N.1696, qu.33). - Đại Huệ Độ Kinh Tông Yếu, 1 quyển, Nguyên Hiểu soạn (ĐCT-, N.1678, qu.33). Và chính tác phẩm Đại Trí Độ Luận gồm 100 quyển (ĐCT-N.1509, qu.25) của Bồ Tát Long Thọ cũng chủ yếu giải thích nội dung kinh Đại Bát Nhã, hội thứ 2, tương đương với kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, do Ngài La Thập dịch. Tuy nhiên, Bát Nhã Tâm Kinh, dù chỉ là một bài kinh rất ngắn, nhưng vì là phần tinh túy của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên từ lâu đã được các bậc Đại sư như Khuy Cơ, Viên Trắc, Pháp Tạng (Đường), Sư Hội (Tống), Tông Phòng, Như Kỷ (Minh)... chú sớ (ĐCT-qu.33), N.1710-1714) và các chú sớ mang N.2746, 2747, không rõ tác giả, được sắp vào Cổ Dật bộ, (ĐCT-qu.85)...... |