Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?
 
Ngay sau khi Thầy Quảng Đức tự thiêu, mọi người đã ngạc nhiên khi hay tin Trái tim của Thầy đã không bị thiêu hủy cùng ngọn lửa. Từ đó đến nay suốt thời gian ngót 37 năm qua, người Việt Nam luôn luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi : Tại sao trái tim của Ngài không bị đốt cháy ? Đây là câu hỏi không những ám ảnh những người bình thường mà còn ám ảnh đối với nhiều khoa học gia, nhiều nhà thần học cũng như các nhà nghiên cứu về những điều kỳ diệu của thế giới vô hình. Tuần qua, nhật báo Người Việt Hoa Kỳ đã đăng tải bài viết của ông Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả, trong đó tác giả đã trình bày lý do vì sao trái tim của Thầy Quảng Đức vẫn còn nguyên vẹn sau khi nhục thể của Thầy bị thiêu thành tro bụi trong lửa đỏ. Mời quý độc giả theo dõi nguyên văn bài viết của tác giả đăng ở trang 3.

Mười ba năm sau ngày Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu, tôi được nghe một Bạn Đạo của Ngài kể lại : "Vì sao Ngài để lại Trái Tim", như một huyền thoại, như một giai thoại Thiền thời đại. Người kể là Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước đây. Thời gian là vào đầu năm 1976 và địa điểm là Trại Cải Tạo Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòa. Vào thời gian trước khi bị đưa ra Bắc, tôi được giam chung với hai vị Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long và Thích Độ Lượng là những người lãnh đạo ngành Tuyên Úy Phật Giáo trong Quân Đội Miền Nam trước 1975. Nhờ cơ hội đó, tôi đã học hỏi được rất nhiều về Phật Pháp, về đức độ và về công hạnh của Ngài Thanh Long. Cũng nhân dịp này, tôi đã đặt câu hỏi về "Trái Tim Ngài Quảng Đức" có thật không và chuyện xảy ra như thế nào ?

Hòa Thượng Thanh Long đã trừng mắt nhìn tôi rồi nói : "Đó là sự thật một trăm phần trăm, thế cậu không tin à ?" - Ngài thường dùng chữ cậu để xưng hô với tôi cho thân mật theo kiểu Bắc, thay vì dùng chữ anh hay đạo hữu - Và tôi trả lời : "Không phải con không tin về chuyện trái tim có thật hay không. Điều con thắc mắc là tại sao thiêu mà trái tim không cháy".

Hòa Thượng đã mỉm cười và ôn tồn nói : "Chính chúng tôi cũng không ngờ và chính tôi là nhân chứng về chuyện này, giờ tôi kể cho cậu nghe". Rồi Ngài bắt đầu thuật lại như sau :

Tôi không nhớ rõ thời gian bao lâu trước ngày Thầy Quảng Đức tự thiêu, trong một buổi họp kín giữa những thành phần lãnh đạo cuộc đấu tranh Phật Giáo tại chùa Xá Lợi, trong đó có tôi. Sau khi bàn thảo xong các việc, đến phần linh tinh thì Thầy Quảng Đức giơ tay, xin ghi tên tự thiêu. Vì là chỗ thân tình, mà cũng để đùa với ông, nên tôi nói : "Này Thầy ơi ! Mấy vị Thiền sư khi chết thường để lại xá lợi đấy nhé. Vậy Thầy định để lại cái gì ?" Ngay lúc đó, theo phản ứng tự nhiên ông trả lời tôi : "Để lại trái tim được không ?" Tôi đáp : "Được chứ, tốt lắm, tốt lắm !" Sau buổi họp hôm đó, tôi đã gọi Taxi đưa Thầy Quảng Đức về chùa Quán Âm trước, rồi sau mới về chùa mình. Thời gian tiếp theo vì bận Phật sự và việc đấu tranh tôi cũng quên đi chuyện này.

Đến ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão tức ngày 11 tháng 6 năm 1963 thì Thầy Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vào lúc 11 giờ trưa. Khi đó tôi đang ở chùa Xá Lợi họp. Lúc đó tình hình rất căng, vì nằm trong thành phần lãnh đạo nên tôi ở luôn tại chùa Xá Lợi để được bảo vệ chứ không về chùa nữa. Nhục thân Thầy Quảng Đức được mang về chùa Xá Lợi nên các Phật tử thường xuyên đến viếng, ngày đêm hàng ngàn người. Mãi năm ngày sau mới đem xuống thiêu tại An Dưỡng Địa Phú Lâm.

Vào chiều ngày 16-06-1963, một Thầy trẻ phụ trách việc thiêu đã chạy về chùa Xá Lợi bạch rằng đã thiêu xong, nhưng không hiểu sao trái tim chưa bị rã, tôi và các vị lãnh đạo cho lệnh tiếp tục thiêu thêm 6 giờ nữa. Sáng ngày hôm sau, cũng Thầy trẻ trên đã về chùa Xá Lợi tay cầm trái tim mầu nâu cứng với nước mắt đầm đìa, nói rằng đã thiêu thêm lò điện không chỉ 6 mà đến 10 tiếng đồng hồ nhưng trái tim vẫn còn, nên đành chịu mà phải mang về trình lên Hội Đồng Viện. Lúc đó tôi nghĩ rằng trái tim thuộc loại cơ nhục nên có lẽ không cháy, thôi thì để thờ. Bốn ngày sau, một Thượng Tọa bên Nguyên Thủy viên tịch cũng đem thiêu thì cốt thành tro hết, lúc đó tôi mới suy nghĩ và nhớ lại câu nói đùa của tôi và lời hứa của Thầy Quảng Đức trong ngày ghi tên xin được tự thiêu. Và tôi tự giải thích rằng : "Trong khi Thầy Quảng Đức ngồi Thiền để tự thiêu thì Thầy đã dùng lửa Tam Muội là một thứ nội hỏa đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa thạch mà lửa thường không thể đốt nổi. Lửa Tam Muội đã khiến trái tim Thầy Quảng Đức thành Kim Cang bất hoại."

Trên đây là tất cả những lời Hòa Thượng Thanh Long đã kể lại cho tôi nghe 24 năm về trước, tính đến hôm nay. Nếu kể từ ngày Ngài Quảng Đức tự thiêu thì đến giờ đã 37 năm rồi. Hôm nay, nhân sắp đến ngày kỷ niệm xả bỏ nhục thân của Ngài, tôi viết những dòng này để cúng dường Ngài và Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, người bạn của Ngài. Nhân dịp này tôi cũng xin nhắc lại về Ngài Quảng Đức.

Ngài có tục danh là Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Ninh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thuở bé Ngài khó nuôi nên Cha mẹ cho người cậu ruột làm con, đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 7 tuổi gia đình cho Ngài xuất gia học đạo với Hòa Thượng Thích Hoằng Thâm. Năm 15 tuổi thọ Sa Di và 20 tuổi thọ Tỳ Kheo. Sau khi thọ giới Ngài bắt đầu tu năm năm khổ hạnh tại núi Ninh Hòa rồi Ngài hành hạnh đầu đà, một y một bát du hóa khắp nơi, mãi sau mới về an trú tại chùa Thiên Ân thị trấn Ninh Hòa.

Năm 1932 khi Ngài được 35 tuổi đời và 28 tuổi Đạo thì Chi Hội Ninh Hòa của Hội An Nam Phật Học mời Ngài làm Chứng Minh Đạo Sư. Từ đó Ngài đi hành hóa khắp các tỉnh Miền Nam Trung Việt, đã góp công kiến tạo và trùng tu được 14 ngôi chùa rải rác khắp miền. Năm 1943, Ngài rời miền Trung vào Nam hành hóa tại các tỉnh Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Long Khánh, Định Tường và Hà Tiên. Trong thời gian này Ngài có lên Nam Vang thuộc Cambodia hành đạo ba năm và nghiên cứu, học hỏi về kinh điển Pali. Năm 1953, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt mời làm Trưởng Ban Nghi Lễ và Hội Phật Học Nam Việt mời Ngài làm trú trì chùa Phước Hòa, trụ sở của Hội tại Sài Gòn. Trong thời gian này Ngài đã góp công trùng tu và tạo lập được 17 ngôi chùa. Ngôi chùa mà Ngài thường trú lâu nhất là chùa Long Vĩnh tại quận Phú Nhuận, Gia Định, cho nên Phật tử Miền Nam thường gọi Ngài là Hòa Thượng Long Vĩnh. Chùa cuối cùng mà Ngài trú trì trước khi tự thiêu là chùa Quán Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Định. Đường Nguyễn Huệ nay đổi là đường Thích Quảng Đức.

Ngài tự thiêu ngày 11-06-1963, đã để lại một kỳ tích là "Trái Tim Xá Lợi". Thông điệp của Ngài để lại là "Xả thân vì Đạo Pháp và Dân Tộc" với tinh thần Bi-Trí-Dũng sáng ngời và sự nhiệm mầu của Phật Pháp. Cố Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương ngay ngày đó đã nhìn lửa thiêu trên nhục thân Ngài mà cảm tác viết bài "Lửa Từ Bi", chúng tôi xin trích ra đây ba đoạn mượn làm lời kết cho bài viết này :

"Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra ngồi nhập định hướng về Tây
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngả luân hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở
tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng... giông bão lắng từ đây
bóng người vượt chín từng mây
nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi

Lửa Quảng Đức mãi mãi soi đường cho Phật Giáo Việt Nam. Trái Tim Quảng Đức chứng tỏ rằng Phật Pháp trường tồn, bất diệt...

Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả

Tinh thần Bi Trí Dũng trong ánh lửa Bồ tát Quảng Đức

Có những cái âm thầm lặng lẽ. Người nằm xuống rồi ra đi với chiếc quan tài đơn sơ được vùi trong đáy mồ hoang lạnh. Có những cái chết khổ sở, đau đớn, tủi nhục, tức tưởi, đành ôm mối hận ngàn đời vẫn chưa rửa sạch. Có những cái chết vinh quang hiển hách, họ là những người làm nên lịch sử, suốt cuộc đời hy sinh cho Tổ quốc, cho sự sống còn của dân tộc. Đó là cái chết của những vị anh hùng liệt sĩ mà toàn dân hằng tôn thờ kính ngưỡng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Thực ra, vấn đề chết là lẽ thường tình của thế nhân. Ai sinh ra trong cõi đời đều phải trải qua đoạn trường đó. Đó là đoạn đường không ngoại trừ một ai. Chết là một định luật tất yếu, ấy thế mà có người lại làm như mình không bao giờ chết. Chính vì thế nên hành động của họ không đem lại hạnh phúc cho chính mình cũng như tha nhân mà lắm khi gây ra nhiều đau khổ cho đồng loại cốt để thỏa mãn lòng tham dục, óc vị kỷ, tính độc ác. Đó là những người chỉ biết sống cho hiện tại, đánh rơi quá khứ và xa rời tương lai. Do vậy họ dồn tất cả tâm tư vào việc mưu cầu giành giựt, đua tranh, hơn thua, thị phi, phải trái. Phải chăng là do dục lạc đưa tới một ảo tưởng về hạnh phúc.

Người con Phật hơn ai hết, đứng trước cái chết vẫn an nhiên bình thản vì ý thức được rằng "Sinh tử sự đại."

Xuất phát từ ý thức đó nên ý nghĩa của sự sống là vươn tới sự giải thoát tối hậu, tức là giải thoát khỏi sự sinh tử để đi tới "liễu sinh thoát tử ".

Cánh cửa "liễu sinh thoát tử" đã mở ra.

Bồ Tát Quảng Đức ung dung tự tại bước vào.

"Bồ Tát Quảng Đức vào đời

Lửa hồng thiêu đốt vẫn ngồi ung dung

Tuyệt thay là đạo nhập đời

Pháp môn bất nhiễm rạng ngời VN."

(Thích Thông Bửu - Từng giọt Ma Ni)

Trong giây phút trở thành thiên thu. Thế giới ba ngàn quy về một nẻo, Bồ Tát Quảng Đức đã thấu rõ sức vô úy :

"Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ, Phật pháp chẳng rời tay." (Vũ Hoàng Chương - Lửa Từ Bi)

Ngọn lửa thắp sáng lên từ một con người đã rọi hào quang giữa bầu trời đen tối vây phủ trên mảnh đất miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ dưới sự cai trị của tập đoàn nhà Ngô thao túng trên nỗi đau của dân tộc.

Ngọn lửa cuồn cuộn đã thiêu rụi mọi thế lực vô minh, làm rung chuyển bao trái tim nhân loại, đánh tan mọi luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật từ phía chính quyền Ngô Đình Diệm và một số người ở phương Tây đã lầm ý nghĩa tự thiêu với tự vẫn.

Bồ Tát Quảng Đức thực hành Bồ tát Hạnh tự thiêu để cúng dường Tam Bảo mong cho Phật pháp được trường tồn giữa thế gian. Hành động dùng ngọn lửa đốt sạch trần uế để làm cho tinh hoa Phật pháp nẩy nở là hành động của bậc xuất trần thượng sỹ.

Bằng vào tâm cảm sâu xa, chúng ta hãy lắng nghe bức thông điệp của Bồ Tát Quảng Đức phản ánh qua nội dung bản Tuyên ngôn ngày 10 tháng 5 năm 1963 của Ủy Ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo :

"Một là : Mong ơn Phật trời gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận 5 nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản Tuyên ngôn.

"Hai là : Nhờ ơn Phật Từ Bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn Bất diệt.

"Ba là : Mong nhờ hồng ân Đức Phật gia hộ cho Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố và bắt bớ giam cầm của kẻ gian ác.

"Bốn là : Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, dân nhân an lạc.

Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng Bác ái Từ bi đối với quốc dân, hãy thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để nước nhà vững yên muôn thuở.

Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại Đức Tăng Ni Phật tử nên đoàn kết nhất trí, hy sinh để bảo tồn Phật giáo.

Nam mô A Di Đà Phật.

Làm tại chùa Ấn Quang, ngày 4-6-1963

Tỳ kheo Thích Quảng Đức thủ ký

Qua bức thông điệp của Bồ Tát, chúng ta nhận rõ : Đây không còn là lửa của hận thù và tội ác. Đây là lửa Từ bi mở mắt cho người mê trong biển khổ, lửa đốt cháy hận thù cho Người với Người trở thành huynh đệ.

"Muôn vạn khối Sân Si vừa mở mắt

Nhìn nhau : Tình huynh đệ bao la."

(Vũ Hoàng Chương - Lửa Từ Bi)

Ngọn lửa Từ bi đó là cái chìa khóa giúp ta mở cánh cửa thực tại, nhận chân được con đường phụng sự dân tộc với tinh thần tín ngưỡng truyền thống của Phật giáo nhằm tránh cuộc tàn phá tâm hồn và mọi giá trị của con người dưới sự toan tính mưu mô của một thiểu số cai trị thâm độc. Ý thức được điều đó, Bồ Tát Quảng Đức kêu gọi hàng Phật tử tại gia hãy tiếp sức với quý Ngài trong Ủy Ban Liên Phái nhằm bảo vệ vận mệnh đất nước và dân tộc :

"Cùng hàng Phật tử tại gia
Hãy quên bản ngã bỏ cái Ta
Gấp sửa thân tâm nhìn đại cuộc
Ngàn năm sử Việt vẫn Phật gia
Thân tôi dù cháy linh thiêng máu
Thần thức tôi luôn giúp Đạo nhà
Đã mang danh thế con dòng Thích
Bi Trí Hùng sao chẳng đem ra."

Hành Như Lai Sự - chính con đường truyền thừa sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp bằng hành động thiết thực "lấy thân làm đèn" để chuyển hóa tâm thức con người và những thế lực vô minh trở về nẻo Thiện.

"Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh."

Ngọn đèn soi sáng đó chính là ngọn đèn Chánh pháp tràn đầy tính chất nhân bản của bậc Đạo sư với lời di huấn tối hậu cho cả hai phái : Xuất gia và tại gia.

"Thầy đã đến lúc biệt các con
Năm mươi năm hạnh nguyện đã tròn
Những gì đáng độ Thầy đã độ
Thầy tranh Chánh pháp lúc mất còn
Gia Định, Sài Gòn hỡi các con !
Hà Tiên, Cai Lậy Thầy vẫn còn
Nam Vang, Núi Lớn Thầy ghi dấu
Khánh Hòa, đệ tử giữ ấn son".

Người nằm xuống ngàn năm và mãi ngàn năm sau vẫn còn vang bóng. Trái tim Bồ Tát đã thánh hóa thành một thế giới của tinh khiết mầu nhiệm về mặt công phu tu luyện đạt đến chân lý tột cùng của Thiền quán.

"Chín cung Trời toàn vẹn trái tim tươi
Tỏa hương thơm dâng muôn nét tuyệt vời
Ngời ánh đạo đóa chân như hiển hiện."

(Thanh Trúc - Bóng Người Đi)

Nói cho cùng, hành động tự thiêu của Bồ Tát Quảng Đức hẳn nhiên không phải là hành động xa lạ đối với người con Phật.

Trong kinh Phật, dùng ngọn lửa để tự đốt thân xác mình nhằm mục đích cao cả, tinh khiết là cách thế cúng dường lớn lao nhất.

Bồ Tát Hỷ Kiến trong kinh Pháp Hoa khi đắc Đại Định đã dùng hỏa Định đốt cháy thân để cúng dường Phật.

Hình ảnh đốt cháy các hương thơm và thân xác cùng cánh tay Bồ Tát Hỷ Kiến là cách đoạn trừ Ái, Thủ bằng ngọn lửa Trí Tuệ Thiền Định dụng vô sở đắc để Trang nghiêm Phật trí.

Xem vậy, đủ thấy rõ giá trị biểu tượng vô song của ngọn lửa hỏa thiêu cúng dường Tam Bảo là ngọn lửa của Trí Tuệ Vô Ngã.

Ngoài ra còn biết bao nhiêu hình ảnh của các nhà Sư đã tiếp nối con đường hỏa thiêu để giải kết cho thệ nguyện đem thân cúng dường mong Phật pháp được trường tồn miên viễn giữa thế gian để làm ngọn hải đăng định hướng cho dòng đời vẩn đục, khổ lụy.

Cho hay, cái bản chất Bi, Trí, Dũng, của đạo Phật có lúc sâu lắng chan hòa gieo rắc tình thương cho đồng loại, cho chúng sanh; nhưng cũng có lúc lại trổi dậy cao vút như ngọn sóng triều dâng khi ý thức dân tộc bị chà đạp, khi giá trị tâm linh bị phủ nhận.

Ý thức đó đã ăn sâu trong tiềm thức của dân tộc Việt, hình thành một cơ sở tinh thần cố hữu vững chắc tạo nên một nếp sống văn minh đầy tính nhân ái.

Có thể nói : Bồ Tát Quảng Đức mang tinh thần nhập thế vào đời bằng một căn bản đạo đức xuất thế. Trang bị cho mình bằng tinh thần Vô Trước, Bồ Tát Quảng Đức đã chiến thắng mọi ma chướng, mọi thế lực vô minh, dục vọng để viết nên trang sử vẻ vang cho dân tộc nói chung và Phật giáo nói riêng bằng ngọn lửa Bi Trí Dũng vô tiền khoáng hậu trong dòng sống Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 20 vậy.

Thanh Trúc